Đà Lạt là một
thành phố trực thuộc tỉnh và tỉnh lị tỉnh
Lâm Đồng, nằm trên
cao nguyên Lâm Viên, ở độ cao 1.500
m so với mặt nước biển và diện tích tự nhiên: 393,29 km². Đà Lạt được
Thủ tướng chính phủ Việt Nam công nhận là
đô thị loại 1 vào ngày 24 tháng 3 năm 2009. Đây là một trong 4 đô thị loại 1 thuộc tỉnh cùng với
Huế,
Nha Trang và
Vinh[1].
Với nhiều cảnh quan đẹp, Đà Lạt là một trong những thành phố
du lịch nổi tiếng nhất của
Việt Nam. Trong thời
Pháp thuộc, tên
tiếng Latin Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem có nghĩa là "cho những người này niềm vui, cho những người khác sự mát mẻ"
[2].
Đà Lạt được mệnh danh là: thành phố hoa, thành phố tình yêu, thành phố
mùa xuân, thành phố sương mù, đặc biệt nhất là biệt danh: thành phố ma
[cần dẫn nguồn].
Địa lý[sửa] Vị tríThành phố Đà Lạt nằm trong cao nguyên Lang Biang, phía Bắc tỉnh Lâm
Đồng, Về phía Bắc, Đà Lạt giáp với huyện Lạc Dương, về phía Đông và
Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương, về phía Tây và Tây Nam giáp với hai
huyện Lâm Hà và Đức Trọng.
Hàng trăm năm trước đây, Đà Lạt là địa bàn cư trú của
người Lạch,
vốn là cư dân của toàn bộ cao nguyên Lang Biang. Đà Lạt có diện tích
hơn 400 km², bao bọc bởi các đỉnh núi cao và dãy núi liên tiếp:
- Phía Bắc và Tây Bắc giới hạn bởi dãy Chorơmui, Yộ Đa Myut (1.816
m), Tây Bắc dựa vào chân dãy núi Chư Yang Kae (1.921 m), thuộc quần sơn
Lang Biang mà đỉnh cao nhất là Chư Yang Sinh (1.408 m).
- Phía Đông là chân dãy núi Bi Doup (2.278 m) dốc xuống cao nguyên Dran.
- Phía Đông Nam chắn bởi dãy Cho Proline (1.629 m).
- Phía Nam và Tây Nam có dãy núi Voi (1.754 m) và Yàng Sơreng bao bọc.
[sửa] Hành chínhThành phố Đà Lạt có 13 phường (được đánh số từ 1 đến 13) và 4 xã: Tà Nung, Xuân Trường, Xuân Thọ, Trạm Hành.
[sửa] Địa hìnhCao trung bình so với mặt biển là 1.500 m. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là Nhà Bảo Tàng (1.532 m), nơi thấp nhất là
thung lũng Nguyễn Tri Phương (1.398,2 m).
Bên trong cao nguyên, địa hình Đà Lạt phân thành hai bậc rõ rệt:
- Bậc địa hình thấp là vùng trung tâm có dạng như một lòng chảo bao
gồm các dãy đồi đỉnh tròn, dốc thoải có độ cao tương đối 25-100 m, lượn
sóng nhấp nhô, độ phân cắt yếu, độ cao trung bình khoảng 1.500 m.
- Bao quanh khu vực lòng chảo này là các đỉnh núi với độ cao khoảng
1.700 m tạo thành vành đai che chắn gió cho vùng trung tâm. Phía Đông
Bắc có hai núi thấp: hòn Ông (Láp Bê Bắc 1.738 m) và hòn Bộ (Láp Bê Nam
1.709 m). Ở phía Bắc, ngự trị cao nguyên Lang Biang là dãy núi Bà (Lang
Biang) hùng vĩ, cao 2.169 m, kéo dài theo trục Đông Bắc - Tây Nam từ
suối Đa Sar (đổ vào Đa Nhim) đến Đa Me (đổ vào Đạ Đờng). Phía Đông án
ngữ bởi dãy núi đỉnh Gió Hú (1.644 m). Về phía Tây Nam, các dãy núi
hướng vào Tà Nung giữa dãy Yàng Sơreng mà các đỉnh cao tiêu biểu là Pin
Hatt (1.691 m) và You Lou Rouet (1.632 m).
Bên ngoài cao nguyên là các dốc núi từ hơn 1.700 m đột ngột đổ xuống các cao nguyên bên dưới có độ cao từ 700 m đến 900 m.
[sửa] Khí hậuDo ảnh hưởng của độ cao và rừng thông bao bọc, Đà Lạt mang nhiều đặc tính của miền
ôn đới. Nhiệt độ trung bình 18–21°C, nhiệt độ cao nhất chưa bao giờ quá 30°C và thấp nhất không dưới 5°C.
Chính thông Đà Lạt giúp cho Đà Lạt thêm phần mát mẻ
Đà Lạt có hai mùa rõ rệt.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10,
mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 4.
Mùa hè thường có mưa vào buổi chiều, đôi khi có mưa đá.
Lượng mưa trung bình năm là 1562 mm và độ ẩm 82%.
Đà Lạt không bao giờ có bão, chỉ có gió lớn do ảnh hưởng bão từ biển thổi vào vì sườn đông không có núi che chắn.
[sửa] Lịch sửCao nguyên Lang Biang trước năm
1893 là địa bàn cư trú của các tộc
người Thượng. Người Việt đầu tiên có ý định khám phá vùng rừng núi
Nam Trung Bộ là
Nguyễn Thông, nhưng do nhiều lí do nên cho tới cuối đời ông vẫn không thực hiện được ý định của mình. Vào hai năm
1880 và
1881, bác sĩ hải quân Paul Néis và trung úy Albert Septans có những chuyến thám hiểm đầu tiên vào vùng người Thượng ở
Đông Nam Bộvà Nam Trung Bộ, và họ được coi là hai nhà thám hiểm đầu tiên đã tìm ra
cao nguyên Lang Biang. Hành trình của Paul Néis và Albert Septans mở
đường cho nhiều chuyến đi khác như A. Gautier (năm 1882), L. Nouet
(1882), thiếu tá Humann (1884).
Ngày
3 tháng 8 năm
1891, bác sĩ
Alexandre Yersin thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên với ý định tìm đường núi từ
Nha Trang vào
Sài Gòn, nhưng chuyến đi này bất thành. Từ
28 tháng 3 đến
9 tháng 6 năm
1892, Yersin thực hiện một cuộc thám hiểm từ Nha Trang, băng qua vùng cao nguyên
Đắk Lắk để đến Stung Treng, nằm bên bờ sông
Mê Công (thuộc địa phận
Campuchia).
Tháng 1
1893, Yersin nhận nhiệm vụ từ
toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan, khảo sát một tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên sâu vào vùng người Thượng và kết thúc ở một địa điểm thuận lợi trên bờ biển
Trung Kỳ. Yersin còn phải tìm hiểu về tài nguyên trong vùng: lâm sản, khoáng sản, khả năng chăn nuôi... Từ ngày
8 tháng 4 đến ngày
26 tháng 6 năm
1893, Yersin đã thực hiện ba chuyến đi quan trọng. Và 15h30 ngày
21 tháng 6,
Yersin đã phát hiện ra cao nguyên Lang Biang, trong nhật ký hành trình,
ông ghi vắn tắt "3h30: grand plateau dénudé mamelonné" (3h30: cao
nguyên lớn trơ trụi, gò đồi nhấp nhô).
Với nhu cầu tìm một vùng đất có khí hậu ôn hòa, gần giống với
châu Âu để xây dựng khu nghỉ mát, trạm điều dưỡng, toàn quyền
Paul Doumer viết một bức thư hỏi ý kiến của Yersin, và Yersin đã trả lời là cao nguyên Lang Biang. Tháng 3 năm
1899,
Yersin cùng toàn quyền Doumer thực hiện một chuyến đi lên cao nguyên
Lang Biang và chuyến đi này có ý nghĩa quyết định về việc thành lập một
trạm điều dưỡng ở đây.
Ngày
1 tháng 11 năm
1899, Doumer ký nghị định thành lập ở Trung Kỳ tỉnh
Đồng Nai Thượng (
Haut-Donnai) và hai trạm hành chính được thiết lập tại
Tánh Linhvà trên cao nguyên Lang Biang. Đó có thể được xem là văn kiện chính
thức thành lập trạm điều dưỡng trên cao nguyên Lang Biang – tiền thân
của thành phố Đà Lạt sau này.
Ngày
20 tháng 4 năm
1916, vua
Duy Tân đã ra đạo dụ thành lập
thị tứ, tức thị xã (
centre urbain) Đà Lạt, tỉnh lị tỉnh
Lâm Viên. Đạo dụ này được Khâm sứ J.E. Charles chuẩn y ngày
30 tháng 5 năm
1916.
Trong hai
thập niên 1900 và
1910, người Pháp đã xây dựng hai tuyến đường từ Sài Gòn và từ
Phan Thiết lên Đà Lạt. Hệ thống
giao thông thuận lợi giúp Đà Lạt phát triển nhanh chóng. Vào năm 1893, vùng Đà Lạt ngày nay hầu như hoang vắng. Đến đầu năm
1916,
Đà Lạt vẫn còn là một khu thị tứ nhỏ với độ 8 căn nhà gỗ tập trung hai
bên bờ dòng Cam Ly, chỉ có 9 phòng khách sạn phục vụ du khách, đến cuối
năm này mới nâng lên được 26 phòng. Cuối năm
1923, đồ án thiết kế đầu tiên hoàn thành, Đà Lạt đã có 1.500 dân.
Ngày
31 tháng 10 năm
1920, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ ngày
11 tháng 10 cùng năm của vua
Khải Định về việc thành lập thành phố (
commune- thành phố loại 2) Đà Lạt cùng với việc tỉnh Đồng Nai Thượng được tái lập. Nhằm biến Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ mát ở
Đông Dương,
Nha giám đốc các sở nghỉ mát Lâm Viên và du lịch Nam Trung Kỳ được
thành lập. Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý, đại diện của Toàn
quyền Đông Dương. Năm
1928 chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng về Đà Lạt. Năm
1936 một Hội đồng thành phố được bầu ra. Năm
1941, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Lâm Viên (Lang Bian) mới tái lập. Thị trưởng Đà Lạt kiêm chức Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên.
Trong thời gian
Thế chiến thứ hai, những người Pháp không thể về
chính quốc nên họ tập trung lên nghỉ ở Đà Lạt. Nhiều nhu cầu rau ăn, hoa quả của người Pháp cũng được Đà Lạt cung cấp.
Ngày 10 tháng 11 năm 1950,
Bảo Đại ký Dụ số 4-QT/TD ấn định địa giới thị xã Đà Lạt.
Theo Địa phương chí Đà Lạt (
Monographie de Dalat), năm 1953, thị xã Đà Lạt là thủ phủ của Hoàng triều Cương thổ, có diện tích là 67 km², dân số: 25.041 người.
Sau
Hiệp định Genève năm
1954, dân số Đà Lạt tăng nhanh bởi lượng người di cư từ Bắc vào Nam. Dưới
chính quyền miền Nam, Đà Lạt được phát triển như một trung tâm giáo dục và khoa học.
Năm
1957, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh
Tuyên Đức. Thị xã Đà Lạt có 10 khu phố.
Nhiều trường học và trung tâm nghiên cứu được thành lập:
Viện Đại học Đà Lạt (1957),
Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt (1959),
Thư viện Đà Lạt(1960), trường Đại học Chiến tranh Chính trị (1966), trường Chỉ huy và
Tham mưu (1967)... Các công trình phục vụ du lịch được tiếp tục xây
dựng và sửa chữa, hàng loạt biệt thự do các quan chức Sài Gòn, nhiều
chùa chiền, nhà thờ, tu viện được xây dựng... Đà Lạt cũng là một điểm
hấp dẫn với giới văn nghệ sĩ.
Sau
1975,
với sự rút đi của quân đội và bộ máy chính quyền miền Nam, nhưng được
bổ sung bởi lượng cán bộ và quận đội miền Bắc, dân số Đà Lạt ổn định ở
con số khoảng 86 ngàn người. Du lịch Đà Lạt hầu như bị lãng quên. Những
năm cuối
thập niên 1980, đầu
thập niên 1990,
hàng loạt khách sạn, nhà hàng được sửa chữa, nhiều biệt thự được đưa
vào phục vụ du lịch... Đà Lạt trở thành một thành phố du lịch quan
trọng của Việt Nam với nhiều lễ hội được tổ chức.
Cuối năm 1975
Bộ Chính trịBan Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định Đà Lạt sẽ
trở thành 1 trong 4 thành phố trực thuộc Trung ương, nhưng ngay sau đó
đã điều chỉnh lại. Tháng 2 năm
1976 Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Namra Nghị định hợp nhất tỉnh Tuyên Đức, tỉnh Lâm Đồng và thị xã Đà Lạt
thành tỉnh Lâm Đồng. Thị xã Đà Lạt trở thành thành phố tỉnh lỵ tỉnh Lâm
Đồng.
[sửa] Dân cư[sửa] Phát triển dân sốDân số 256.593 người (
2009), mật độ 469 người/km²
Trước
Thế chiến thứ hai,
dân số Đà Lạt rất ít, ngoài dân cư bản địa chỉ có một số ít người châu
Âu làm công tác. Số người Kinh định cư đầu tiên ở Đà Lạt là những tù
nhân, thay vì phải lưu đày ở
Côn Đảo thì bị đưa lên Đà Lạt để khai phá đất hoang, xây dựng nhà cửa. Trong khoảng thời gian từ năm
1933 đến
1938 nhiều công trình giao thông được hoàn thành. Bắt đầu từ thời gian này dân số Đà Lạt bắt đầu tăng nhanh từ 1.500 người (
1923) lên đến 9.000 người năm
1928 rồi 11.500 người vào năm
1936. Và đến cuối năm
1942, Đà Lạt đã đạt con số hai vạn dân.
Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, các viên chức Pháp không có khả năng
trở về quê hương nên đổ xô lên Đà Lạt nghỉ mát. Dân số tăng nhanh trong
thời kỳ này: 13.000 người năm
1940, 20.000 người (
1942) và lên đến 25.000 người năm
1944. Trong thời gian kháng chiến 9 năm (
1945-
1954)
dân số Đà Lạt chựng lại ở vào khoảng 25.000 người. Vào cuối năm 1954
dân số tăng lên đến 52.000 người và giữa năm 1955 là 53.390 người do
người dân miền Bắc di cư vào Nam. Từ đấy dân số Đà Lạt tăng 73.290
người vào năm
1965, 89.656 người (
1970) và đến năm
1982 dân số Đà Lạt đã vượt qua con số 100.000 người. Năm
1999, dân số Đà Lạt là 129.400 người.
[sửa] Thành phần dân tộc[3]STTDân sốSố người
[sửa] Kinh tếKinh tế Đà Lạt có thế mạnh về du lịch, trồng hoa và rau. Phần lớn
diện tích trồng hoa chuyên nghiệp của tỉnh Lâm Đồng tập trung tại Đà
Lạt. Tổng cộng diện tích canh tác nông nghiệp của Đà Lạt vào khoảng
9.978 ha. Sản lượng rau hằng năm vào khoảng 170.000 tấn, trong đó có
35.000 tấn được xuất khẩu sang các nước Đông Bắc châu Á và
ASEAN. Sản lượng hoa Đà Lạt hằng năm vào khoảng 540 triệu cành, trong đó xuất khẩu vào khoảng 33,3 triệu cành hoa
[4].
[sửa] Kiến trúc"Tòa nhà" đầu tiên ở Đà Lạt là một đồn binh lợp lá vào năm
1898, tiếp theo đó là nhà bằng gỗ lợp tôn của viên công sứ Pháp năm
1900.
Hotel du Lac mở cửa vào năm
1907. Năm
1916 người Pháp cho xây dựng thêm Hotel du Langbian Palace. (
[1]). Đà Lạt thật sự trở thành thành phố khi người Pháp xây dựng thành phố theo đồ án thiết kế tổng thể của kiến trúc sư
Ernest Hébrard. Năm
1933 kiến trúc sư Pineau trình bày một công trình nghiên cứu chỉnh trang và mở rộng Đà Lạt. Đến năm
1940kiến trúc sư Mondet thiết lập một đồ án mới, quay về với ý tưởng của
Hébrard là bố trí các khu vực hành chánh và dân cư quanh hồ. Thế nhưng
dự án này không được duyệt.
Đà Lạt có nhiều công trình xây dựng đặc sắc, phần nhiều mang đặc
trưng của kiến trúc kiểu Pháp. Trong thời gian vừa qua toàn cảnh kiến
trúc đô thị của thành phố Đà Lạt đã bị phá vỡ vì xây dựng thiếu quy
hoạch đồng bộ, lấn chiếm làm nhà ở và cơi nới, xây cất vô lối ngay
trong biệt thự. Nếu so với nhiều thành phố khác trong cả nước, Đà Lạt
vẫn là một thành phố trẻ, nhưng đó lại là một thành phố có đồ án thiết
kế theo kiểu cách phương Tây. Đà Lạt trước kia là một thành phố do
người Pháp xây dựng cho người Pháp, và các đồ án thiết kế đều phải do
Phủ toàn quyền quyết định, các kỹ sư, kiến trúc sư, các đoàn lên Đà Lạt
nghiên cứu về việc chỉnh trang, xây dựng đều được tuyển chọn kỹ lưỡng
và nhất thiết phải có trình độ chuyên môn giỏi.
[sửa] Trường Cao đẳng Sư phạm Đà LạtTrường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt (trước kia là trường
Grand Lycée Yersin) là kiến trúc được
Hội Kiến trúc sư thế giới (UIA) công nhận là một trong số 1.000 công trình xây dựng độc đáo của thế giới trong
thế kỷ 20. Trường được người Pháp thành lập năm
1927, do kiến trúc sư Moncet thiết kế và chỉ đạo xây dựng, dành cho con em người Pháp và một số gia đình người Việt giàu có. Năm
1932 trường
Petit Lycée Dalat được đổi tên thành
Grand Lycée de Dalat và đến năm
1935 trường có tên là
Lycée Yersin để tưởng niệm bác sĩ
Alexandre Yersin. Dãy lớp học được xây hình vòng cung, gạch xây trường là gạch trần đỏ được chở từ
châu Âu sang, mái được lợp bằng ngói làm từ nước
Pháp.
Hiện nay các tấm ngói lợp đã được thay thế do các tấm ngói cũ đã không
còn sử dụng được nữa. Điểm nhấn của dãy nhà hình vòng cung là tháp
chuông. Phía bên ngoài tháp chuông trước đây có 1 đồng hồ nhưng có lẽ
đã bị tháo dỡ, du khách chỉ có thể thấy vết tích của chiếc đồng hồ lớn
còn in lại trên nền gạch. Bên trên tháp chuông cũng không còn chuông do
có lẽ đã bị tháo dỡ trong thời chế độ cũ.
[sửa] Chợ Đà LạtBài chi tiết: Chợ Đà LạtNgôi chợ đầu tiên của Đà Lạt được xây vào năm
1929. Chợ được xây bằng cây, lợp mái tôn, vì thế mà còn được gọi là "Chợ Cây". Năm
1931 "Chợ Cây" bị cháy rụi, đến năm
1937Công ty SIDEC xây dựng một ngôi chợ mới thay thế "Chợ Cây" (nay là rạp
3/4. Ngoài bưu điện Đà Lạt, rạp 3/4 cũng được xem là 1 tâm điểm của
thành phố).
Chợ Đà Lạt ngày nay (trước đây gọi là chợ mới) được khởi công xây dựng vào năm
1958 trên 1 thung lũng sình lầy ngay dưới chân đồi của chợ cũ, do kiến trúc sư
Nguyễn Duy Đức thiết kế. Sau khi ở nước ngoài về, kiến trúc sư
Ngô Viết Thụcó tham gia chỉnh trang về quy hoạch và kiến trúc (đặc biệt là việc
thay đổi mặt tiền, thiết kế bổ sung cầu nổi béton, khu công viên trước
chợ, và các dãy phố lầu xung quanh chợ. Chợ được hoàn thành vào năm
1960, là một trong những ngôi chợ lầu đầu tiên ở Việt Nam. Năm
1993, nhân dịp kỷ niệm 100 nam tìm ra Đà Lạt, chợ đã được khởi công cải tạo nâng cấp.
[sửa] Ga Đà LạtBài chi tiết: Ga Đà LạtNhà ga xe lửa Đà Lạt
Ga Đà Lạt cho đến nay là ga duy nhất của Việt Nam được công
nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Nhà ga được kiến trúc sư
người Pháp Moncet cùng với đồng nghiệp là Revenron thiết kế và lãnh đạo
thi công. Công trình khởi công năm
1932 đến năm
1936 thì hoàn thành. Các kiến trúc sư đã thể hiện hình tượng dãy núi
Langbian qua 3 vòm mái của nhà ga. Tuyến đường sắt từ Đà Lạt đi Tháp Chàm (
Phan Rang)
đã là tuyến đường sắt răng cưa duy nhất của Việt Nam từ trước đến nay.
Rất tiếc là hệ thống răng cưa này đã bị tháo dỡ bán sắt vụn gần hết sau
năm
1975.
Cây cầu sắt dành cho tuyến tàu hỏa bắt qua sông Đa Nhim tại địa phận
thị xã Drancũng đã được chính quyền địa phương quyết định tháo dỡ vào năm 2004. Ga
Đà Lạt hiện nay chỉ còn một chiếc đầu máy xe hỏa hơi nước chạy bằng
than củi, 2 chiếc khác đã được
Bảo tàng Xe lửa Thụy Sĩ mua lại. Ga Đà Lạt hiện nay là điểm tham quan du lịch, hằng ngày có các chuyến tàu chở du khách đi từ ga đến Trại Mát.
[sửa] Thiền viện và chùaChùa Thiên Vương Cổ Sát
- Thiền viện Trúc Lâm là thiền viện lớn nhất Việt Nam, khánh thành năm 1994, là một trong những công trình xây dựng Phật giáo lớn nhất sau năm 1975.
Chùa tọa lạc bên cạnh hồ Tuyền Lâm trên một khu đất rộng 25 ha. Thiền
viện Trúc Lâm hiện nay được nối với Trung tâm thành phố Đà Lạt (đồi
Robin) bằng hệ thống cáp treo, chuyên chở khách đến Thiền viện và quay
về.Hồ Tuyền Lâm năm 2005 được chính quyền tỉnh Lâm Đồng xây dựng thành
một khu du lịch lớn, thu hút khoảng khoảng 30 nhà đầu tư.
- Chùa Linh Phước
còn được gọi là Chùa Ve Chai vì trong sân có con rồng dài 49 m được làm
bằng 12.000 vỏ chai, sành sứ. Chùa là một kiến trúc khảm sành độc đáo
của Đà Lạt. Chùa tọa lạc tại Trại Mát, cách trung tâm thành phố 10 km
về phía Đông.
- Chùa Linh Sơn được xây dựng từ năm 1938 đến năm 1940
do sự đóng góp của các Phật tử, nhất là ông Nguyễn Văn Tiến và Võ Đình
Dung, người đã nhận thầu hầu hết các công trình kiến trúc thời bấy giờ.
- Chùa Thiên Vương Cổ Sát được khởi xây năm 1958,
cách trung tâm Đà Lạt vào khoảng 5 km, nằm trên một đồi thông. Chính
điện chùa có 3 tượng Phật cao 4 m thỉnh từ Hồng Kông, phía sau chùa,
trên đồi thông là tượng Thích Ca Phật Đài cao 20 m. Chùa còn được gọi
là Chùa Tàu, theo hệ phái Phật giáo Huê Nghiêm của Trung Quốc.
- Chùa Linh Phong tọa lạc tại đường Hoàng Hoa Thám, được xây dựng năm 1944. Trong chùa chỉ có sư nữ tu nên chùa còn được gọi là Chùa Sư Nữ.
- Chùa Linh Quang, ngôi tổ đình đầu tiên của Đà Lạt, tọa lạc trên đường Hai Bà Trưng do hòa thượng Thích Nhân Thứ tạo lập năm 1931.
[sửa] Nhà thờKhuôn viên bên trong của nhà thờ Domain de Marie
Nhà thờ chánh tòa Đà Lạtthường được gọi là Nhà thờ Con gà vì có hình con gà trên nóc, biểu
tượng cho thánh Phê-rô. Nhà thờ được khởi công xây dựng từ năm
1931, đến năm
1942 thì hoàn thành. Nhà thờ là một trong những kiến trúc tiêu biểu và cổ xưa của Đà Lạt.
Ngoài ra Đà Lạt còn có nhiều nhà thờ khác như
Nhà thờ Domaine de Marie với kiến trúc kiểu Pháp rất đẹp, trong nhà thờ còn có một vườn hoa tuyệt đẹp với 2 cây Tùng trên 75 năm tuổi,
nhà thờ Du Sinh có kiến trúc cổ truyền Việt Nam với mái cong và rồng.
Nhà thờ Cam Ly được xây dựng từ năm
1960 đến
1968 theo kiểu nhà rông Tây Nguyên.
[sửa] Dinh thựĐà Lạt có nhiều dinh thự và biệt thự đẹp như:
- Dinh I: đã từng là văn phòng quốc trưởng của Bảo Đại, nay được Công ty K'Gim - Hàn Quốc đầu tư thành khu khách sạn,giải trí cao cấp.
- Dinh II: từng là biệt thự nghỉ mát của toàn quyền Decoux, rồi sau đó là của Ngô Đình Diệm và Nguyễn Cao Kỳ. Sau năm 1975 là nhà khách UBND tỉnh Lâm Đồng.
- Dinh III: còn gọi là dinh Bảo Đại, xây dựng từ năm 1933, nằm ở đường Triệu Việt Vương, gần Viện vacxin và các chế phẩm sinh học Đà Lạt. Từ năm 1949,
Đà Lạt là thủ phủ của Hoàng triều cương thổ, vua Bảo Đại sống với gia
đình và làm việc tại đây. Hiện nay còn lưu giữ lại nguyên trạng 25
phòng và một số hiện vật của ông vua cuối cùng triều Nguyễn, hoàng hậu
Nam Phương, các hoàng tử và công chúa. Vườn hoa trước biệt điện được
chăm sóc công phu.
- Biệt thự Long Mỹ Quận Công Nguyễn Hữu Hào (cha của Nam Phương Hoàng Hậu Nguyễn Hữu Thị Lan - vợ vua Bảo Đại).
- Biệt thự Thống đốc Nam kỳ, nay là trụ sở UBND tỉnh Lâm Đồng.
- Biệt thự Hằng Nga.
Ngoài ra còn hàng trăm biệt thự cổ khác nằm rải rác, nhiều căn bị bỏ hoang lâu ngày.
[sửa] Viện nghiên cứu nguyên tử Đà Lạtvới toàn bộ thiết bị nghiên cứu do chính phủ Hoa Kỳ trang bị và do kiến trúc sư
Ngô Viết Thụ thiết kế, lấy cảm hứng từ ý tưởng lò bát quái.
[sửa] Du lịchĐược ví như một Tiểu Paris, Đà Lạt từng mộng mơ và nên thơ nhờ cái
lạnh cao nguyên ban đêm, sương mù buổi sớm và những dải rừng thông bao
quanh thành phố. Không gian này tuy vậy đã phần nào bị mất đi cái chất
Pháp trong các kiến trúc biệt thự thiếu chăm sóc hay bị sửa đổi không
phù hợp.
Du lịch tuy là một thế mạnh song cũng là yếu tố làm thay đổi Đà Lạt theo hướng đô thị hóa.
[sửa] Đồi CùĐồi Cù bên bờ Hồ Xuân Hương
Đồi Cù nằm giữa trung tâm thành phố Đà Lạt nằm kế bên là Hồ Xuân
Hương do vậy thường được nhắc đến như một địa danh dính liền nhau -
nhiều người cho rằng Đà Lạt sẽ kém phần mỹ lệ nếu thiếu Đồi Cù và hồ
Xuân Hương. Năm 1942, khi thiết kế đồ án quy hoạch thành phố Đà Lạt,
kiến trúc sư Lagisquet đã khoanh vùng Đồi Cù như một khu vực bất khả
xâm phạm nhằm tạo một tầm nhìn thoáng đãng cho Đà Lạt. Về sau, một kiến
trúc sư người Anh đã thiết kế biến Đồi Cù thành sân
golf 9 lỗ khá nổi tiếng của vùng
Đông Nam Ávà hiện nay Đồi Cù đã được nâng cấp thành sân golf 18 lỗ. Tên Đồi Cù
không rõ có từ bao giờ, và vì sao gọi là "Đồi Cù" lại có hai hướng lý
giải, có người cho rằng những quả đồi thoai thoải nơi đây khi nhìn từ
xa giống như tấm lưng trần của những con cù khổng lồ nên đã ví von gọi
là "Đồi Cù"; cũng có người giải thích sở dĩ có tên "Đồi Cù" vì nơi đây
là một địa điểm chơi golf hay còn gọi là đánh cù.
[sửa] Hồ Xuân HươngHồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương nằm ngay trung tâm thành phố Đà Lạt và bên cạnh Đồi
Cù. Hồ thực chất là hồ nhân tạo được xây dựng vào năm 1919 do sáng kiến
của Cunhac. Để tạo thành hồ, người ta đắp một cái đập chắn dòng suối
chảy qua thung lũng, hồ có diện tích mặt nước rộng 25 ha, chu vi dài
5,1 km. Xung quanh hồ nhiều kiến trúc độc đáo có giá trị nghệ thuật,
thẩm mỹ cao được xây dựng như khách sạn Palace, thao trường Lâm Viên,
nhà nghỉ Công Đoàn, Nhà hàng Thanh Thủy, Thủy Tạ... Trước kia hồ có tên
gọi Grand Lac (hồ lớn). Vào buổi sáng sớm sương mù hiện lên rất đẹp và
thơ mộng.
[sửa] Công viên hoa Đà LạtCông viên hoa Đà Lạt
Công viên hoa Đà Lạt nằm quanh trên bờ phía Bắc của hồ Xuân Hương,
trên thung lũng của Đồi Cù. Trước đây công viên hoa Đà Lạt có tên là
Bích Câu, hiện nay diện tích của công viên hoa được mở rộng tới 7000
m², với cách bố trí thoáng đãng, tạo ấn tượng cho người chợt ghé. Các
loại hoa và cây cảnh nổi tiếng của Đà Lạt được trồng tỉa chăm sóc chu
đáo, cảnh sắc tươi mát, phong phú bốn mùa. Hàng năm thường tổ chức lễ
hội hoa và là thông điệp nhằm mời gọi, thu hút các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài phát triển Đà Lạt và các vùng phụ cận trở thành
trung tâm sản xuất, xuất khẩu hoa của cả nước và khu vực Đông Nam Á.
[sửa] Các điểm tham quan du lịch khácHiện nay, do không được quan tâm bảo trì đúng mức, nhiều thắng cảnh đang bị phá hủy, như
thác Liên Khương đã cạn nước,
thác Gougah đã mất, những thác khác như thác Prenn, thác Cam Ly,
thác Voi đang trong tình trạng xuống cấp, cảnh quan cũng đang bị phá hủy do không được tu bổ, sửa chữa thường xuyên
[5].