Nguyễn Du tự là Tố Như sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng, tại
Thăng Long. Tổ tiên ông vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn
Sơn Nam (thuộc Hà Tây và nay thuộc Hà Nội) sau di cư vào xã Nghi Xuân,
huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên
Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt
làm quan
.
Đến thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị
giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận
Công dưới triều Lê... Ngoài là một đại thần, ông Nghiễm còn là một nhà
thơ, một nhà nghiên cứu sử học. Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21
người con trai[1]. Người con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đỗ Tam
giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản Quận Công (con bà
chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa
Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm
trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ
bảy, nên còn được gọi là Chiêu Bảy
.
Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc
hạ làm chức câu kế, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc,
nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn
chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm con, bốn trai và một gái.
Thuở nhỏ
Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá
mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các
anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi
ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi)).
Năm 1780, khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh
Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán
làm thế tử, thay cho con
trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam.
Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại
và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục,
kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây
sống
với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Thế là anh em Nguyễn Du từ
bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.
Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không
rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ
tên) ở Thái Nguyên, không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế,
khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở
Thái Nguyên.
Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà.
Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo
quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang tiến chiếm Đại
Việt. Nguyễn Du cũng chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng
không kịp, đành trở về quê vợ, quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình, sống nhờ
nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?).
Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin ở Gia Định,
chúa Nguyễn Ánh
(1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo,
nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng
Nguyễn Thuận chỉ huy, bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông
sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802, khi chúa
Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ông được gọi ra làm
quan cho nhà Nguyễn.
Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện
tại huyện Phù Dung (nay thuộc
Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín
(Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau:
<blockquote dir="ltr" style="margin-right: 0px;">Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.
Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.
Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
Năm 1814: Sau khi đi sứ về vào ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.
Năm
1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được
cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột
ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy
giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm
1820
Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).
--theo
http://www.nguyendudl.com--<></blockquote>